Nghiên cứu Blue Mountain Eye cho thấy hội chứng chuyển hóa có liên quan đến việc tăng nguy cơ mắc cả ba loại bệnh đục thủy tinh thể liên quan đến tuổi tác. Phát hiện này đã được xác nhận ở cả dân số phương Tây và châu Á. Nghiên cứu về mắt Malay của Singapore cho thấy tăng huyết áp có liên quan với tất cả ba loại đục thủy tinh thể, bệnh tiểu đường với đục vỏ và đục cực sau và rối loạn lipid máu và béo phì với đục vỏ. Những nghiên cứu này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xác định và điều trị các yếu tố nguy cơ có thể thay đổi được, có thể làm giảm nguy cơ hình thành đục thủy tinh thể.
Sử dụng statin và ảnh hưởng đến bệnh đục thủy tinh thể đã là một chủ đề gây tranh cãi và bàn cãi. Một phân tích tổng hợp gần đây của Yu và cộng sự cho thấy không có bằng chứng rõ ràng cho thấy việc sử dụng statin làm tăng nguy cơ đục thủy tinh thể. Hơn nữa, do những lợi ích của statin đối với bệnh nhân tim mạch, sự e ngại về bệnh đục thủy tinh thể không nên cản trở việc sử dụng chúng.
BỆNH TOÀN THÂN
- Đục T3 và Suy thận
Mối liên quan giữa bệnh thận mãn tính (CKD) và đục thủy tinh thể đã được xác định trong nhiều nghiên cứu. Liu và cộng sự đã phân tích hồi cứu một đoàn hệ gồm 1 tr bệnh nhân đến từ Đài Loan. Sau khi tính toán đối sánh tuổi và giới, có 11 881 bệnh nhân trong nhóm CKD và 47 524 bệnh nhân ở nhóm không CKD. Nghiên cứu của họ cho thấy tỷ lệ nguy cơ được điều chỉnh của đục thủy tinh thể là 1,84 ở nhóm CKD và thậm chí cao hơn, 2,33 ở nhóm bệnh thận giai đoạn cuối (ESRD), cho thấy nguy cơ đục thủy tinh thể tăng lên theo mức độ nghiêm trọng của chức năng thận. Rim và cộng sự đã công bố rằng những bệnh nhân bắt đầu chạy thận nhân tạo vì ESRD cũng có nhiều khả năng phải trải qua phẫu thuật đục thủy tinh thể hơn và ở độ tuổi trẻ hơn.
- Đục T3 và Viêm gan
Các nghiên cứu gần đây đã nhấn mạnh mối liên quan giữa viêm gan B (HBV) và viêm gan C (HCV) và đục thủy tinh thể. Park và Choi phát hiện ra rằng nhiễm HBV và HCV có liên quan đáng kể đến sự hình thành đục thủy tinh thể. Điều thú vị là mối quan hệ giữa HBV và đục thủy tinh thể là do nồng độ men ALT và AST cao, là những dấu hiệu cho thấy gan bị xơ hóa và viêm đáng kể. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa HCV và đục thủy tinh thể không được giải thích do tổn thương gan, mà là do các cơ chế khác, cần được nghiên cứu thêm. Có giả thiết cho rằng các kháng nguyên HCV hoặc HCV có thể có ảnh hưởng trực tiếp đến thủy tinh thể. Hơn nữa, việc điều trị HCV bằng cách sử dụng interferon-ribavirin cũng có thể làm tăng nguy cơ đục thủy tinh thể.
- Bệnh Celiac và đục T3
Bệnh Celiac (CD) là một bệnh ruột qua trung gian miễn dịch ảnh hưởng đến ruột non. Những bệnh nhân này không dung nạp gluten và các nghiên cứu gần đây đã gợi ý rằng bệnh nhân CD bị giảm khả năng chống oxy hóa. Có tác giả cho rằng stress oxy hóa có khả năng đóng một vai trò trong việc hình thành đục thủy tinh thể, người ta đã đưa ra giả thuyết rằng bệnh nhân CD có nguy cơ bị đục thủy tinh thể cao hơn. phát triển. Mollazadegan và các đồng nghiệp đã thực hiện một nghiên cứu thuần tập dựa trên dân số để xác định nguy cơ đục thủy tinh thể ở những người có CD được chứng minh bằng sinh thiết.
- Lupus ban đỏ hệ thống và đục T3:
Biểu hiện tại mắt bệnh lupus ban đỏ hệ thống (SLE) là tương đối phổ biến liên quan đến một phần ba số bệnh nhân mắc bệnh đang hoạt động. Đục thủy tinh thể là tổn thương mắt phổ biến nhất ở bệnh nhân SLE toàn thân. Alderaan và cộng sự nhận thấy rằng ở bệnh nhân SLE, hoạt tính của bệnh, huyết áp và liều prednisone đang xử dụng tích lũy có liên quan đến nguy cơ đục thủy tinh thể cao hơn.
- Viêm da dị ứng và đục T3
Viêm da dị ứng là một dạng viêm da thể mãn tính và thường liên quan đến bệnh hen suyễn và viêm mũi dị ứng. Mặc dù bệnh viêm da dị ứng thường bắt đầu ở thời thơ ấu, nhưng nó có thể tiếp tục diễn ra từ tiền dậy thì đến tuổi trưởng thành.Viêm da dị ứng là một yếu tố nguy cơ phát triển cả đục T3 cực trước và sau. Cơ chế hình thành đục thủy tinh thể trong viêm da dị ứng được cho là bao gồm stress oxy hóa, liệu pháp corticosteroid và có thể do ánh sáng.
BỆNH RỐI LOẠN CHUYỂN HÓA
1 - Bệnh Wilson
Bệnh Wilson là một bệnh rối loạn đa hệ thống do gên lặn trên nhiễm sắc thể thường, do suy giảm bài tiết đồng ở gan. Kết quả là, có sự lắng đọng đồng bất thường khắp cơ thể. Các dấu hiệu mắt được biết đến nhiều nhất của bệnh Wilson là vòng Kayser ‐ Fleisher và đục thủy tinh thể hình hạt hướng dương. Đục thủy tinh thể hoa hướng dương được Siemerling và Oloff mô tả lần đầu tiên vào năm 1922 và là do sự lắng đọng đồng trong nang thủy tinh thể trước.Mặc dù thường liên quan đến bệnh Wilson Bệnh đục thủy tinh thể có thể gặp trong các tình trạng khác bao gồm bệnh nấm da và xơ gan ứ mật nguyên phát và có thể tự thoái lui khi điều trị.
2 - Bệnh Galactosemia
Bệnh galactosemia là một bệnh di truyền lặn ở thể nhiễm sắc, trong đó cơ thể không thể chuyển đổi galactose thành glucose. Tỷ lệ mắc bệnh là khoảng 1 trên 60 000, nhưng có thể thay đổi tùy theo vị trí địa lý. Galactose thường được chuyển hóa thông qua con đường Leloir. Galactosemia là kết quả khi có khiếm khuyết ở bất kỳ một trong ba enzym chịu trách nhiệm chuyển hóa galactose: galactose 1 ‐ phosphate uridyltransferase (GALT), galactokinase (GALK), hoặc UDP galactose ‐ 4 ‐ epimerase (GALE) .
Galactosemia cổ điển, còn được gọi là galactosemia loại I, là dạng phổ biến nhất và nghiêm trọng nhất và là do khiếm khuyết trong GALT.
Bệnh galactosemia cổ điển biểu hiện sớm, thường trong vài tuần đầu sau sinh với suy dinh dưỡng, gan to và thiểu năng trí tuệ. Nếu không được nhận biết và điều trị sớm bằng chế độ ăn hạn chế lactose, bệnh sẽ ít đe dọa đến tính mạng.
Thiếu hụt galactokinase (GALK), hoặc galactosemia loại II, dẫn đến một dạng galactosemia nhẹ. Trẻ em mắc bệnh GALK không được điều trị bằng chế độ ăn uống hạn chế thích hợp sẽ bị đục thủy tinh thể, và đôi khi bị giả u não, nhưng thường không có bất kỳ vấn đề sức khỏe lâu dài nào khác.
Bệnh thiếu hụt epimerase galactosemia (GALE), hoặc bệnh galactosemia loại III, từ có khả năng gây tử vong đến lành tính trên lâm sàng tùy thuộc vào mức độ hoạt động của enzym. Bệnh Galactosemia dẫn đến hình thành bệnh đục thủy tinh thể hình giọt dầu do sự tích tụ của galactitol trong thủy tinh thể. Galactitol là một loại rượu đường và dạng khử của galactose. Mức độ tăng của galactitol trong thủy tinh thể tạo ra một gradient thẩm thấu, hút nước vào các sợi thủy tinh thể dẫn đến hình thành đục thủy tinh thể. Nhận biết sớm sự phát triển của đục thủy tinh thể, sau đó bắt đầu hạn chế chế độ ăn uống có thể dẫn đến cải thiện được tình hình.
3 - Bệnh Fabry
Bệnh Fabry là một bệnh hiếm gặp, liên kết X, rối loạn dự trữ lysosome do thiếu hụt enzym alpha ‐ galactosidase A (a ‐ Gal A). Căn bệnh này dẫn đến sự tích tụ của globotriaosylceramide nội bào, một loại axit béo. Các biểu hiện ở mắt thường gặp ở bệnh Fabry, nhưng thường không gây suy giảm thị lực đáng kể. Mặc dù vết xước giác mạc là dấu hiệu mắt điển hình nhất, hai loại đục thủy tinh thể chính đã được mô tả cùng với bệnh Fabry là đục dưới bao phía trước có thể có mặt và thường là hai bên và hình nêm, với sự phân bố hướng tâm. Đục dưới bao (PSC) hiếm hơn, nhưng rất đặc hiệu cho bệnh. Các PSC phía sau có hình dạng khác biệt với các đường thẳng màu trắng ngà có hình dạng giống như nói trên nằm gần bao sau. Đục thủy tinh thể ở bệnh Fabry được phát hiện tốt nhất bằng cách sử dụng chiếu sáng retro.
4 - Hội chứng Lowe
Hội chứng Lowe, còn được gọi là hội chứng tuyến thượng thận, là một rối loạn đa hệ hiếm gặp, liên kết với X về chuyển hóa axit amin do khiếm khuyết trong gen OCRL1. Nó đặc trưng bởi bộ ba đục thủy tinh thể bẩm sinh, thiểu năng trí tuệ và rối loạn chức năng ống thận gần loại Fanconi. Đục thủy tinh thể trong hội chứng Lowe luôn có hai bên và xuất hiện ngay từ khi mới sinh. Đục thủy tinh thể phát triển sớm trong quá trình hình thành phôi thai do sự hình thành khiếm khuyết và thoái hóa của các sợi thủy tinh thể phía sau cơ bản.
Bs Hoàng Cương
Tập hợp từ website của AAO