Chấn thương Mắt: Chúng ta đã làm tròn trách nhiệm ? 

Chấn thương mắt có ảnh hưởng sâu rộng tới từng cá nhân hay lớn hơn là cả cộng đồng . Đặc biệt, chấn thương toàn cầu hở ( Open Globe Injuries- OGI) có nguy cơ gây mù lòa cao, dẫn đến những tác động nguy hại khác tới cơ thể như khả năng vận động, hướng nghiệp và tính độc lập của mỗi cá nhân

Bất chấp những lời kêu gọi về các biện pháp y tế công cộng và sự quan tâm không ngừng của giới chuyên môn trong việc tối ưu hóa kết quả xử lý OGI, câu hỏi vẫn đó là: liệu chúng ta đã làm đủ để giảm thiểu tỷ lệ mắc bệnh và cải thiện kết quả điều trị chấn thương mắt?

Chấn thương nhãn cầu có vẻ giảm nhờ các chính sách vĩ mô?

Trong số hiện tại của tạp chí Nhãn khoa Lâm sàng và Thực nghiệm, Lee và cộng sự đã mô tả dịch tễ học, đặc điểm lâm sàng, các yếu tố tiên lượng và chi phí kinh tế của loạt nghiên cứu 155 bệnh nhân OGI được điều trị bằng phẫu thuật tại Bệnh viện Westmead, Sydney, Úc. Nghiên cứu công bố báo cáo tỷ lệ mắc của OGI là 1,41 trên 100.000 người/ năm, phản ánh xu hướng toàn cầu là tỷ lệ mắc OGI đã giảm. Tai nạn nghề nghiệp gây thương tích chiếm hơn 1/3 tổng số chấn thương. Trong đó nam giới trẻ chiếm 96,3%,  trong phân nhóm này 89,1% các trường hợp OGI xảy ra trong khi làm việc, trong hoàn cảnh đeo kính bảo vệ mắt không đầy đủ. Các phép thống kê gây chú ý đặc biệt vì chứng minh được phần lớn các chấn thương có thể phòng ngừa được. Luật hạn chế việc sử dụng pháo hoa vào mục đích cá nhân đã làm giảm 87% số ca chấn thương mắt do bắn pháo hoa theo Dorman và cộng sự. Gần đây một báo cáo đã công bố OGI giảm rõ sau khi thực hiện chiến lược giảm tiêu thụ rượu ở Bắc Queensland, Úc. Ở nhiều nước, các biện pháp y tế công cộng nói chung như bắt buộc thắt dây an toàn trong xe đã làm giảm tỷ lệ mắc OGI và tử vong nói chung.

Bảo hộ lao động, các biện pháp đề phòng chưa bao giờ là vô ích?

Chúng ta đã biết quá rõ OGI liên quan đến nghề nghiệp, vậy có thể cải thiện các biện pháp để bảo vệ nhân viên tại nơi làm việc khỏi bị thương tích không? Một số quốc gia bao gồm Hoa Kỳ và Úc đã ban hành các hình phạt áp dụng đối với người sử dụng lao động không cung cấp môi trường làm việc an toàn (bao gồm cả thiết bị bảo hộ cá nhân) và phải đảm bảo không có bất kỳ nguy cơ nào với sức khỏe. Những thói quen người lao động có được ở nơi làm việc thường xuyên không phải lúc nào cũng chuyển sang môi trường gia đình dễ dàng, nơi các OGI cũng có thể xảy ra. Cần giáo dục cẩn thận về tác dụng của kính bảo vệ cho nhân viên và người sử dụng lao động. Các hoạt động thể thao và giải trí cũng đóng góp 17% các ca OGI theo báo cáo của Lee và cộng sự. Điều thú vị là việc sử dụng kính bảo vệ hầu như không bắt buộc trong bóng quần kiểu Úc. Quy định bắt buộc đối với những người mới chơi, những người chơi đánh đôi, và trọng tài. Tuy nhiên những người chơi đơn và là người lớn có thể cởi bỏ kính. Điều này đặt ra câu hỏi: có nên đeo kính bảo hộ là bắt buộc đối với tất cả các cầu thủ, không phân biệt độ tuổi. Việc xác định các môn thể thao có nguy cơ mắc OGI cao nhất nên được xem xét để  khuyến nghị đeo kính bảo vệ mắt bắt buộc và thích hợp hay không, giống như thiết bị bảo vệ bắt buộc khi tham gia giải của Liên đoàn Bóng bầu dục Quốc gia ở Hoa Kỳ. Thêm  một mối quan tâm nữa, té ngã ở bệnh nhân lớn tuổi được đánh giá là một nguyên nhân quan trọng của OGI. Trong khi té ngã chỉ chiếm 15% các trường hợp OGI theo Lee và cộng sự nhưng trong một nghiên cứu riêng biệt khác 67% trường hợp OGI sau khi ngã sẽ dẫn đến mù lòa. Vậy có nên có các chiến dịch khuyến khích người cao tuổi kiểm tra thị lực giống như chương trình kiểm tra thị lực thời thơ ấu không? Tất cả bệnh nhân bị ngã có nên được đánh giá thị lực không? Là bác sĩ nhãn khoa, chúng ta có nghĩa vụ đối với bệnh nhân của mình là phải thông báo cho bệnh nhân và người nhà họ về nguy cơ té ngã nếu họ bị suy giảm thị lực.

Tăng cường chất lượng điều trị chấn thương nhãn cầu, vẫn chưa đủ?

Chúng ta cũng cần xem xét việc cải thiện việc chất lượng phẫu thuật điều trị OGI và chăm sóc sau mổ. Bằng chứng để cổ vũ việc này là phẫu thuật sửa chữa nhanh chóng sẽ giảm nguy cơ viêm nội nhãn, đặc biệt là trong trường hợp vết thương bẩn, vỡ bao thủy tinh thể và có dị vật nội nhãn. Các vấn đề còn không chắc chắn lắm trong quản lý OGI bao gồm các chỉ định cắt dịch kính sớm cho OGI ở vùng 2 và 3 của võng mạc và thời điểm chính xác của việc mổ lấy đục thủy tinh thể do chấn thương. Các quyết định phẫu thuật như vậy thường được đưa ra với từng trường hợp cụ thể. Công việc của chúng ta sẽ được hưởng lợi nhiều từ việc tập trung nghiên cứu vào những lĩnh vực này để có được hướng dẫn thực hành tốt hơn. Một trong những rào cản chính trong việc nghiên cứu OGI là sự không đồng nhất về nhận định lâm sàng của các chấn thương, điều này làm cho các nghiên cứu dù được thiết kế tốt và nhiều tiềm năng trở nên khó khăn để thực hiện. Phần lớn nghiên cứu của OGI dựa trên các nghiên cứu hồi cứu với số lượng bệnh nhân tương đối nhỏ, vì rất khó đạt được cỡ mẫu thích hợp để thỏa mãn mục tiêu nghiên cứu nếu không có nhiều trung tâm cùng tham dự nghiên cứu trong thời gian dài. Vì vậy, đăng ký chấn thương mắt được coi là một phương pháp quan trọng để thu thập số lượng lớn dữ liệu để cải thiện quản lý OGI.

Cơ quan đăng ký chấn thương mắt Cuba phát hiện ra rằng búa thao tác trên kim loại góp phần vào 39% thương tích và thị lực sau chỉnh kính cuối cùng dưới 6/60 ở 49% bệnh nhân. Gần đây hơn, Nghiên cứu Quốc tế Dịch tễ học Chấn thương mắt và phần phụ nhãn cầu (IGATES) đã được được thành lập như một nỗ lực hợp tác giữa Hiệp hội chấn thương nhãn khoa Châu Á-Thái Bình Dương, Hiệp hội Quốc tế của Chấn thương mắt, Hiệp hội Chấn thương Mắt Trung Quốc và Hiệp hội chấn thương mắt của Ấn Độ. Là một cơ quan đăng ký đa quốc gia, do vậy đây sẽ là một bước quan trọng trong việc nâng cao hiểu biết của chúng ta về OGI

Tăng cường đào tạo phẫu thuật viên chấn thương

Cuối cùng, tầm quan trọng của việc đào tạo đầy đủ về phẫu thuật sửa chữa OGI không thể được đánh giá thấp. Kinh nghiệm trong phẫu thuật sửa chữa thường bị hạn chế, đặc biệt là trong số thực tập sinh và bác sĩ nhãn khoa làm việc tại các địa điểm với tỷ lệ mắc bệnh OGI thấp. Ngoài ra còn có một tác động tiêu cực từ các kỹ thuật phẫu thuật không khâu hiện đại lên kinh nghiệm lâu năm của chúng ta và do đó ảnh hưởng đến năng lực sửa chữa OGI. Một số thiếu sót trong đào tạo có thể được giải quyết bởi xu hướng toàn cầu hướng tới dựa trên năng lực giáo dục y tế. Từ năm 2022, Trường Cao đẳng Nhãn khoa Hoàng gia Úc và New Zealand sẽ quy định một số quy trình phẫu thuật tối thiểu, bao gồm cả việc sửa chữa OGI, bắt buộc các học viên phải hoàn thành trước khi hoàn thành chương trình đào tạo. Tuy nhiên, trong số rất nhiều học bổng nhãn khoa trên khắp thế giới, không có học bổng chuyên biệt về chấn thương mắt. Do vậy, các kỹ năng đầy đủ phải được gây dựng và duy trì thông qua đào tạo trong phòng wet-lab, tham dự các khóa học và thông qua việc chuyển giao các kỹ năng phẫu thuật khác từ các thủ thuật phân đoạn trước. Cần có những nỗ lực không ngừng nhằm đảm bảo rằng các bác sĩ phẫu thuật có liên quan đến việc sửa chữa OGI được đào tạo chuyên môn phù hợp sẽ đi một chặng đường dài để tối ưu hóa kết quả lâu dài cho bệnh nhân.

Cần gì nữa?

Với tư cách là những người chuyên nghiệp, chúng ta có thể và nên làm nhiều hơn nữa trong việc ngăn chặn OGI trong cộng đồng, bằng cách vận động các nhà lập pháp và các tổ chức có liên quan, yêu cầu các chiến lược phòng ngừa. Bằng cách tham gia đào tạo và nghiên cứu về OGI chúng ta có thể tiếp tục giảm tác động với cá nhân và xã hội của loại hình chấn thương có tính hủy hoại này.

 

Bs Hoàng Cương

Theo Shivesh Varma MBBS

Tạp chí Nhãn khoa Lâm sàng và Thực nghiệm

2639 Go top