Cận thị - gánh nặng chưa vơi? 

Hiện có những bằng chứng không thể chối cãi về sự bùng phát bệnh cận thị và cận thị số cao ở các khu vực Đông và Đông Nam Á, bao gồm Trung Quốc đại lục, Hồng Kông và Ma Cao, Trung Quốc Đài Bắc (thường được gọi là Đài Loan), Hàn Quốc, Nhật Bản và Singapore.

Ở khu vực này, khoảng 80% học sinh hoàn thành chương trình giáo dục 12 năm học hiện đang bị cận thị và từ 10% đến 20% có độ cận thị cao trên - 6D.  Đại dịch cận thị đã ảnh hưởng đến hầu hết các khu vực Đông Á nhưng thấp nhất là ở Singapore và một số dự báo cho thấy rằng hầu hết thế giới sẽ chứng kiến sự gia tăng tỷ lệ mắc bệnh vào năm 2050 tới 50% dân số. Những gì đang xảy ra ở Trung Quốc có ý nghĩa đối với phần còn lại của khu vực Châu Á - Thái Bình Dương và thực sự là toàn thế giới. Các phương pháp tiếp cận mới để kiểm soát cận thị đã sẵn sàng để sử dụng một cách có hệ thống, có thể được hỗ trợ bởi việc sàng lọc và chuyển tuyến trên toàn hệ thống. Ngoài việc tận dụng tất cả các biện pháp nêu trên, Trung Quốc hiện nay dường như đang hướng tới những cải cách lớn đối với trường học, giảm áp lực giáo dục, đặc biệt là trong những năm học đầu tiên, dành nhiều thời gian hơn cho việc vui chơi và học tập ngoài trời. Các nghiên cứu về dịch tễ ưa sử dụng thuật ngữ “phòng ngừa cận thị” để chỉ các biện pháp nhằm giảm tỷ lệ mắc bệnh cận thị và “kiểm soát cận thị” để chỉ các biện pháp nhằm giảm sự tiến triển của cận thị thành cận thị cao.

Hội thảo Ortho K và kiểm soát tiến triển cận thị thế giới lần thứ 6 tổ chức tại Hà nội từ ngày 22 đến 24/8/2025 đã cho những thông tin buồn nhiều hơn vui bên cạnh sự náo nhiệt, thuyết trình và quảng bá rầm rộ do các hãng - công ty tổ chức. Chúng ta không phải chờ đến 2050 để chứng kiến cứ 2 người có 1 người cận thị (tỷ lệ mắc 50%) mà có khi chỉ là năm 2030. Cận thị đang muốn chuyển thành bệnh cận thị chứ không còn là tật nữa. Tật cận thị vốn chỉ là việc thay và mua kính gọng hay kính tiếp xúc mới mà đã trở thành bệnh với những biến chứng tiềm tàng và nguy hiểm nếu là cận thị mức nặng - số kính cao như bong võng mạc, thoái hóa hoàng điểm, đục thể thủy tinh bệnh lý và glôcôm sắc tố.

Những người ủng hộ thuyết tiến hóa của Darwin sẽ hài lòng với nội dung phiên khai mạc có đoạn: Cận thị là bằng chứng về sự thích ứng của mắt trước cuộc sống văn minh nhưng theo tôi là sự đáp ứng thất bại, gây phiền toái. May thay đã có thêm một bổ sung quan trọng: Cận thị không phải do ngẫu nhiên mà phản ánh một khuynh hướng di truyền, chủ yếu do làm việc bằng mắt quá độ trong điều kiện thiếu ánh sáng hoặc ánh sáng không phù hợp.

Các điểm nhấn trong tiến trình cận thị

Trung quốc cho thấy một bức tranh điển hình về sự phát triển của tật cận thị. Tỷ lệ mắc cận thị bắt đầu gia tăng từ khoảng 6 tuổi, khi trẻ em bắt đầu đi học ở Trung Quốc. Tốc độ tăng chậm trong những năm đầu tiểu học nhưng tăng nhanh và đến cuối tiểu học, trên 50% trẻ em đã bị cận thị. Sự gia tăng tỷ lệ mắc bệnh sau đó dần dần chậm lại trong những năm học sau này.

Tỷ lệ cận thị và cận thị cao dần theo độ tuổi. Đối với cận thị số cao, tỷ lệ mắc cận thị vẫn ở mức gần hoặc dưới 1% cho đến tuổi từ 11 đến 12 nhưng nó tiếp tục tăng lên ít nhất là cho đến khi kết thúc thời gian đi học. Mô hình này gợi ý rằng cận thị phát triển trong những năm đầu tiểu học tiến đến ngưỡng - 6D trong vòng 5 hoặc 6 năm sau khi bắt đầu đi học. Các mốc cận thị: - 3D, - 6D, -10D và -15 D sẽ là những mốc cảnh báo cận thị thông thường, cận thị bệnh lý, cận thị ác tính để bản thân người bệnh, phụ huynh, thày thuốc lưu tâm đúng mức. Theo đó chi phí y tế và nguy cơ mù lòa cũng tăng lên tương ứng. Các mốc thời gian quan trọng sau đây, sẽ ứng với biểu hiện bệnh và các biện pháp can thiệp phù hợp:

6 tuổi

18 tuổi

25 tuổi

50 tuổi

Khởi phát và tiến triển cận thị

Cận thị tiến triển

Ổn định

Xuất hiện biến chứng

Phòng ngừa ban đầu

Sàng lọc, điều chỉnh và kiểm soát cận thị

Điều chỉnh cận thị

Phát hiện và điều trị biến chứng, phục hồi chức năng thị giác

Tổ hợp các biện pháp điều trị cận thị

Kinh điển vẫn là các phương pháp tiếp cận quang học hiệu chỉnh cận thị, bao gồm kính gọng thông thường, thiết kế kính áp tròng và kính áp tròng khử tiêu cự. Cái mới là bộ ba: Atropine liều thấp, kính Ortho K và áp tròng mềm, kính gọng khử tiêu cự hay kính DIMS nhưng được áp dụng uyển chuyển và phối hợp với nhau. Về học thuật khái niệm hiệu chỉnh cận thị (correction) và kiểm soát nó (control) cũng được phân tách rạch ròi hơn. Hiệu chỉnh chỉ mang tính tình thế, trong một thời điểm còn kiểm soát là ngăn cản cận thị tiến triển, kiểm soát biến chứng trong thời gian dài thậm chí là cả đời. Chúng ta có thêm những cải biến quan trọng trong theo dõi tiến triển cận thị như các thiết bị đo lường sinh trắc học, cơ sinh học giác mạc, các phần mềm chẩn đoán và gợi ý điều trị. Hiển nhiên AI đã được ứng dụng ngày càng tinh xảo và hoàn hảo với các thiết bị chẩn đoán trên. Xu hướng cá thể hóa hiệu chỉnh và kiểm soát cận thị đã không còn là lời hứa hay hô hào xuông. Các phương pháp điều trị có thể đơn độc hoặc phối hợp với nhau tùy đáp ứng, độ cận thị, tốc độ gia tăng, tuổi tác. Các nghiên cứu thực chứng được nêu ra nhiều nhưng nghiên cứu RCT (thử nghiệm lâm sàng) vẫn còn thiếu, do vậy giới chuyên môn vẫn còn nhiều băn khoăn khi áp dụng các biện pháp điều trị. Phẫu thuật khúc xạ không được nêu tên tại Hội thảo quốc tể lần này. Có lẽ do đây là hội nghị của giới Khúc xạ, trong khi những chỉ định của phẫu thuật khúc xạ đã quá rõ ràng, vốn của giới bác sĩ Nhãn khoa. Bệnh cận thị như cái gốc, phẫu thuật khúc xạ chỉ là sửa phần ngọn mà thôi.

Atropine liều thấp vẫn là biện pháp rẻ tiền, an toàn và hiệu quả nhất trong tổ hợp kiểm soát cận thị

Phương pháp tiếp cận dược lý duy nhất đã trở thành một phần của thực hành lâm sàng là sử dụng atropine, đặc biệt ở liều thấp. Tất cả các phương pháp này dường như có khả năng làm giảm ít nhất 50% sự tiến triển trong vài năm. Trong 5 năm tiến hành thử nghiệm lâm sàng tại Singapore dung dịch atropine 0.01% tỏ ra có tác dụng làm chậm đi tiến triển của cận thị trên 50% các trường hợp và hầu hết không gây tác dụng phụ. Atropine 0.01% rồi 0.025% và 0.05% được các nhóm nghiên cứu ở châu Á nghiên cứu nhiều. FDA chưa công nhận sản phẩm này nhưng vẫn cho thuốc lưu lành dưới dạng pha chế bóc nhãn - off label. Giá thành 1 tháng điều trị là khoảng 75-85 USD. Lứa tuổi để bắt đầu dùng thuốc là trong khoảng 5 -11 tuổi, có tác giả chọn 6 -12 vì trẻ dưới 5 tuổi nếu có cận thị không dùng atropine có thể can thiệp còn ở tuổi hơn 12 cận thị vẫn tiến triển bình thường mà atropine không làm gì được. Thuốc chỉ hữu ích với cận thị trục (cận thị do trục nhãn cầu dài hơn bình thường). Phải dùng thuốc ít nhất 6 tháng mới có tác dụng, sau 2 năm mới rõ hiệu quả. Cơ chế hoạt động của atropine trong việc giảm nhẹ cận thị còn chưa được hiểu biết tường tận cho dù 2 cơ chế được nhắc đến đó là: Atropine làm dày hắc mạc do tăng phóng thích dopamine và làm thay đổi gắn kết giữa thụ thể muscarinic với protenine G, làm thay đổi lưới sợi bào trên củng mạc. Các tác dụng phụ như nhìn mờ khi đọc sách, sợ ánh sáng làm phụ huyng lo ngại. Trẻ đang đeo kính phải chuyển sang dùng kính 2 tròng hoặc kính màu, thêm nữa thuốc có thể gây kích ứng da. Chính những tác dụng trên làm người ta không ưa dùng atropine, đặc biệt là ở Mỹ. Tác dụng “bật trả” cũng được người ta nhắc tới đó là khi cận thị tăng phi mã khi dừng thuốc.

Kính ORTHO K

Kính Ortho -K (hay còn gọi là Orthokeratology) là loại kính áp tròng cứng thấm khí được đeo vào ban đêm khi ngủ để định hình lại tạm thời giác mạc, giúp điều chỉnh các tật khúc xạ như cận, loạn thị và kiểm soát tiến triển cận thị ở trẻ em. Phương pháp này cho phép người dùng nhìn rõ ban ngày mà không cần đeo kính gọng hay kính áp tròng, và có thể làm chậm quá trình tăng độ cận ở trẻ em hiệu quả. Kính Ortho-K có thiết kế đặc biệt, tác động lên giác mạc trong khi ngủ để thay đổi hình dạng trung tâm, làm phẳng giác mạc. Việc định hình lại giác mạc giúp ánh sáng hội tụ đúng vào võng mạc, cải thiện thị lực và cho phép người đeo nhìn rõ cả ngày sau khi tháo kính. Ngoài ra cũng làm chậm quá trình tăng trưởng độ cận ở trẻ em bằng cách làm giảm sự mất nét ở vùng ngoại vi của võng mạc. Tuy được quảng cáo với rất nhiều ưu điểm, được thiêt kế tinh xảo và phù hợp cho từng cá thể nhưng biến chứng, tuy rất ít, nhưng vấn là hiện hữu và hậu quả là nghiêm trọng, ám ảnh đối với các bác sĩ mắt. Tỷ lệ người mang kính vẫn gia tăng cận thị cũng là câu hỏi lớn cho nhà cung cấp dịch vụ, giới chỉnh quang cũng như các bác sĩ mắt.

Ánh sáng đỏ ngày càng được nhiều người nhắc đến

Ánh sáng đỏ (bước sóng 630nm), nếu nguồn sáng là đèn LED thì sẽ không tạo ra tia UV hay hồng ngoại (không gây hại cho thể thủy tinh và võng mạc). Võng mạc của chúng ta chật cứng ty thể, nơi tập trung các ty thể hơn bất kỳ bộ phận nào khác trên cơ thể. Ty thể hấp phụ bước sóng của ánh sáng đỏ. Dùng ánh sáng đỏ theo thuyết ty thể, sẽ kích thích ty thể, giảm hủy hoại và làm chậm quá trình lão hóa nói chung. Ánh sáng đỏ có thể giúp cải thiện một nhóm bệnh, đặc biệt là các bệnh của ty thể ngoài ra còn đang được ứng dụng trong kiểm soát cận thị, đặc biệt ở trẻ em, bằng cách kích thích mô mắt khỏe mạnh, làm chậm sự dài ra của trục nhãn cầu - nguyên nhân chính gây cận. Cơ chế được coi là thông qua ty thể, tăng năng lượng ATP cho tế bào mắt, giúp chúng hoạt động hiệu quả hơn. Ánh sáng đỏ là phương pháp không xâm lấn, an toàn và có thể kết hợp với các biện pháp khác như kính Ortho-K hoặc kính gọng để tăng hiệu quả kiểm soát cận thị.

Chính sách phòng ngừa là cốt lõi

Giảm áp lực giáo dục

Trong một hệ thống trường học, trẻ em đi học nhiều năm hơn có xu hướng bị cận thị nhiều hơn và ở một cấp học nhất định, trẻ em đạt thành tích cao hơn có xu hướng mắc bệnh cận thị nhiều hơn, cũng như trẻ em theo nhiều dòng học hoặc lớp học hơn. Quan hệ nhân quả về vai trò đối với giáo dục đã được xác nhận với phân tích ngẫu nhiên Mendelian và phân tích hồi quy - gián đoạn, nhưng một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên (RCT) sẽ là phi đạo đức trong lĩnh vực này. Sự gia tăng tỷ lệ mắc bệnh cận thị trong thời gian đi học chủ yếu là do sự gia tăng tiếp xúc với các yếu tố rủi ro môi trường khi còn là học sinh, chứ không phải do tuổi tác gia tăng. Hàn Quốc đã cố gắng hạn chế dạy thêm học thêm từ những năm 1980 vì lý do bình đẳng, nhưng không thành công, ước tính rằng hơn 75% trẻ em đi học được dạy kèm riêng, gần 7 giờ một tuần. Nhật Bản cũng đã cố gắng cải cách hệ thống giáo dục của mình. Từ những năm 1990, Nhật Bản đã giảm giờ học, theo cải cách trường học Yutori (nới lỏng). Vào năm 2018 Trung Quốc ban hành “Kế hoạch thực hiện kiểm soát toàn diện cận thị ở trẻ em và thanh thiếu niên”. Kế hoạch này xác định mục tiêu giảm tỷ lệ mắc bệnh cận thị ít nhất 0,5% hàng năm so với tỷ lệ mắc bệnh cơ bản năm 2018 bằng khuyến khích phụ huynh và chính sách với nhà trường để giảm áp lực học hành, thi cử, tăng thời gian hoạt động ngoài trời. Chúng ta còn chờ thống kê của Việt Nam

Tăng thời gian hoạt động ngoài trời

Trẻ em dành nhiều thời gian ở ngoài trời hơn được bảo vệ khỏi sự khởi phát của cận thị. Cơ chế đã được xác định (tăng giải phóng dopamine võng mạc do ánh sáng ngoài trời sáng hơn, với dopamine làm chậm tốc độ kéo dài trục nhãn cầu) đã được công nhận trong các nghiên cứu về Thực nghiệm cận thị ở động vật. Có một số bằng chứng cho thấy nó cũng có thể áp dụng cho con người. Khả năng tăng thời gian ở ngoài trời để làm chậm sự khởi phát của cận thị đã được chứng minh trong các nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng RCT và trong quá trình thử nghiệm trên toàn cầu. Thời gian hoạt động ngoài trời cho dù hiện vẫn đang gây tranh cãi song ít nhất 2 giờ ở ngoài trời mỗi ngày, trong đó có ít nhất 1 giờ hoạt động thể chất là mức phổ biến, được khuyến cáo mạnh mẽ.

Giảm tần suất và thời lượng sử dụng thiết bị kỹ thuật số

Tỷ lệ mắc bệnh cận thị đã cao sẵn đối với thanh niên vào những năm 1980 ở Đài Loan, Hồng Kông, và Singapore và vào những năm 1990 ở Trung Quốc đại lục. Thiết nghĩ thiết bị này không thể đóng một vai trò quan trọng trong việc bùng phát cận thị. Do đó, câu hỏi quan trọng là liệu các thiết bị kỹ thuật số có đóng một vai trò nào đó trong việc gia tăng tỷ lệ mắc bệnh gần đây hay không. Các bằng chứng hiện tại là mâu thuẫn và cần phải nghiên cứu thêm. Nếu nghiên cứu trong tương lai thiết lập mối liên hệ nhân quả rõ ràng, có vẻ như việc hạn chế sử dụng thiết bị kỹ thuật số lại khiến trẻ em quay trở lại hành vi trước đây, vốn đã khiến chúng bị cận thị. Ngoài ra, nếu thói quen dành nhiều thời gian trong nhà vẫn tồn tại thì việc khuyến khích trẻ ra ngoài sẽ hiệu quả hơn là hạn chế sử dụng thiết bị kỹ thuật số. Người ta còn thấy mông lung bởi ánh sáng xanh trong các thiết bị kỹ thuật số gây ra cận thị, đục thể thủy tinh và thoái hóa hoàng điểm nữa. Vẫn cần những thống kê thuyết phục hơn nữa.

Cận thị vẫn có vẻ còn nguyên để thử thách trí tuệ, bản lĩnh, đột phá y học… của nhân loại. Sau tất cả những gì chúng ta đã biết, đã làm, đã có thì câu trả lời đã rõ: chúng ta không thanh toán được cận thị mà đang phải sống chung với nó. Ai tìm ra cách điều trị nó, giống như với ung thư, sẽ là người có trí tuệ vĩ đại nhất thế gian này. Bởi thế, cận thị là gánh nặng vẫn còn đó?!

Bs Hoàng Cương

Cảm nghĩ sau Hội thảo GOMCC-OVC

 

40 Go top